CÀ DẠI HOA VÀNG
thuốc phiện Papaveraceae
Tên khác:
cà gai, cây gai cua, cây mùi cua, lão thử lực
Tên khoa học:
Argemone Mexicana L
Mô tả:
Cà dại hoa vàng là một loài cỏ có thâm mẫm, cao chừng 30-40cm. Lá mọc so le, trên có lông cứng, nhọn với những đường gân màu trắng. Hoa màu vàng tươi, mọc ở đầu cành, rộng 2-6cm, đài có 3 cánh sớm rụng. Quả nang thuôn dài, có góc và gai nhọn. Khi chín, mở từ phía trên theo 5 van. Thai toà tồn tại, trên mang vòi, trong như chiếc lông có chứa rất nhiều hạt tròn, dẹt, màu đen. Mùa hoa: tháng 4 (hình). Toàn cây chứa nhựa màu vàng
Thông tin thêm:
Cây nguồn gốc châu Mỹ (vùng nhiệt đới), được di thực vào châu Á. Tại Hà nội, cây này mọc hoang rất nhiều dọc bờ song Hồng.
Thành phần hóa học:
Trong hạt có 16% chất béo, màu vàng nhạt hơi chóng khô. Bã còn lại chứa các chất ancaloit, Becberin và protopin Chúng ta biết rằng protopin là một ancaloit thường gặp trong thuốc phiện và những cây thuốc họ thuốc phiện, chúng tôi tìm lại becberin nhưng không thấy (Đỗ tất Lợi) Năm 1973, Bùi Chí Hiếu và D.A Muraeva đã chiết được từ Cà dại hoa vàng các ancaloit protopin, allocriptopin, sanguinarin và heleritin
Cách dùng:
Mụn nhọt, mẩn ngứa Tại Việt nam chưa thấy dùng cây này làm thuốc Theo A.Petelot, tại mehico và Ần độ người ta dùng dầu của cây này để thắp đèn. Dầu này còn có tác dụng tẩy như dầu thầu dầu với liều 2-4g hoặc 10-30 giọt, không gây đau bụng. Dầu vàng mới ép, tác dụng mạnh, càng để lâu tác dụng càng kém. Nó có thể thay dầu thầu dầu và tốt hơn dầu thầu dầu vì không sánh, cũng không có mùi khó chịu. Cây này được công nhận làm thuốc trong Dược thư Mehico, nhưng không rõ tại đó người ta dùng chữa bệnh gì Tại đảo Mactinic, nhựa cây dùng chữa trai chân, mụn cơm, bệnh ngoài da, hình như nó có tác dụng làm tê. Tại Ấn độ hạt được dùng làm thuốc gây nôn. Cần chú ý nghiên cứu
Tác dụng:
Đơn thuốc: