Chào mừng bạn đến với Thuốc Quý Trong Vường | Sàn Đông Dược , hãy đăng ký kênh để nhận các video mới   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với Thuốc Quý Trong Vường | Sàn Đông Dược , hãy đăng ký kênh để nhận các video mới Powered By DVMS co.,ltd

KIM NGÂN

Chuyên mục: Đông Dược (Thuốc Nam, Thuốc Bắc)
Cây kim ngân cho ta 3 vị thuốc: 1. Hoa kim ngân hay kim ngân hoa-Flos Lonicerae là hoa phơi hay sấy khô của cây kim ngân 2. Cành và lá kim ngân-Caulis cum folium. Lonicerae-là cành và lá phơi hay sấy khô của cây kim ngân. Thuộc Họ:
Cơm cháy Caprifoliaceae
Tên khác:
nhẫn đông
Tên khoa học:
Lonicera japonica Thunb
Mô tả:
Kim ngân là một loại dây mọc leo, than có thể vươn dài tới 10m hay hơn. Cành lúc còn non màu lục nhạt, có phủ lông mịn, khi cành già chuyển màu nâu đỏ nhạt, nhẵn. lá mọc đối, đôi khi mọc vòng 3 lá một, hình trứng dài, đầu hơi tù, phía cuống tròn, cuống ngắn 2-3mm, cả hai mặt đều phủ lông mịn. vào các tháng 5-8, hoa mọc từng đôi ở kẽ lá, mỗi kẽ lá có một cuống mang hai hoa, hai bên lá mọc đối mang 4 hoa, lá bắc giống lá nhưng nhỏ hơn. Hoa hình ống xẻ hai môi, môi lớn lại xẻ thành 3-4 thùy nhỏ, phiến của tràng dài gần bằng ống tràng, lúc đầu màu trắng, sau khi nở một thời gian chuyển màu vàng, cùng một lúc trên cây có hoa mới nở màu trắng như bạc, lại có hoa nở đã lâu màu vàng như vàng nên có tên là kim ngân (kim là vàng, ngân là bạc); cây kim ngân xanh tốt vào mùa đông cho nên còn có tên là nhẫn đông nghĩa là chịu đựng mùa đông, 4 nhị thòi dài cao hơn tràng; vòi nhụy lại thòi dài cao hơn nhị, mùi thơm dễ chịu. quả hình trứng dài chừng 5 mm (hình).
Thông tin thêm:
Kim ngân là một cây mọc hoang tại nhiều tỉnh vùng núi nước ta, nhiều nhất ở Cao bằng, Lạng sơn, Ninh bình, Thanh hóa, Nghệ an, Hà tỉnh, Bắc giang, Thái nguyên, Quảng ninh, Vĩnh phúc, Phú thọ. Một số nơi người ta bắt đầu trồng lấy hoa và cành lá làm thuốc. Do cây kim ngân có lá xanh tốt quanh năm, đến tháng 4-5 lại cho hoa đẹp và thơm cho nên có thể trồng làm cảnh và lấy bóng mát. Kim ngân có thể trồng ở miền núi cũng như đồng bằng. đất đai và khí hậu Hà nội cũng rất thích hợp. ta có thể trồng bằng dâm cành: cắt những cành bánh tẻ dài chừng 20-60cm, khoanh thành khoanh, chon xuống đất, để chừa đọan sau cùng; vào thời kỳ đầu cần tưới đều. có thể trồng quanh năm nhưng tốt nhất là vào tháng 2-3 Sau một năm có thể bắt đầu thu hoạch; thu hoạch lâu năm, càng về những năm sau càng nhiều hoa. Nên hái hoa lúc sắp nở hay khi mới nở, màu còn trắng chưa chuyển vàng. Có thể hái hoa riêng, cành lá riêng nhưng cũng có thể hái hoa và kèm ít cành lá chung, về nhà phân riêng. Hoa hay cành lá hái về phơi hay sấy khô là dùng được, không phải chế biến gì them. Việc quản lý hoa và cành lá kim ngân tương đối dễ và ít bị mốc mọt.
Thành phần hóa học:
Hiện nay hoạt chất của kim ngân chưa được xác định Theo Tăng quản Phương trong hoa kim ngân có inozit (hay inozitol) chừng 1% Theo Thang đằng Hán, hoạt chất của kim ngân là một chất có trạng thái dầu, không bay hơi, có thể tan trong nước và trong dung môi hữu cơ. Tuy nhiên cần chú ý là trong nhân dân trung quốc dùng kim ngân dưới dạng nước cất hoa kim ngân mà vẫn thấy tác dụng, chứng tỏ phần cất theo hơi nước cũng có tác dụng. Năm 1961, một số nhà nghiên cứu Nhật bản cho biết trong kim ngân có một glucozit gọi là lonixerin có cấu tạo luteolin-7-rhamnoza Qua thực nghiệm chúng tôi thấy trong kim ngân có nhiều saponozit (Đỗ Tất Lợi)
Cách dùng:
Mụn nhọt, mẩn ngứa Kim ngân là một vị thuốc kinh nghiệm trong nhân dân, dùng chữa mụn nhọt, rôm sảy, lên đậu, lên sởi, tả lỵ, giang mai. Một số nơi nhân dân dùng pha nước uống thay nước chè. Theo các tài liệu cổ: kim ngân vị ngọt, tính hàn (lạnh), không độc, vào 4 kinh phế, vị, tâm và tỳ. có năng lực thanh nhiệt giải độc, dùng chữa sốt, mụn nhọt, tả lỵ, giang mai. Uống lâu nhẹ người tăng tuổi thọ. Nhưng những người tỳ vị hư hàn không có nhịêt độc không nên dùng Trên thực tế lâm sang, kim ngân thường được dùng riêng hay phối hợp với nhiều vị thuốc khác chữa mụn nhọt, mẫn ngứa, sốt nóng, sốt rét, tả lỵ. gần đây trên cơ sở thực nghiêm, kim ngân được mở rộng chữa có kết quả các trường hợp viêm mũi dị ứng, thấp khớp và một số trường hợp dị ứng khác (Đỗ Tất Lợi và Nguyễn Văn An 1966) Ngày dùng 4-6g hoa hay 10-12g cành lá dưới dạng thuốc sắc, hay cao hoặc rượu thuốc. có thể dùng riêng vị kim ngân hay phối hợp với nhiều vị khác. Một số người uống kim ngân đi tiêu lỏng. chỉ cần giảm liều xuống hoặc ngưng uống là hết.
Tác dụng:
Tác dụng kháng sinh: Tác dụng kháng sinh được nhiều nhà nghiên cứu chú ý và chứng minh trong thực nghiệm Người ta thấy nước hoa kim ngân có tác dụng ức chế rát mạnh đối với tụ cầu khuẩn vi khuẩn thương hàn, trùng lỵ Shiga. Nước sắc có tác dụng mạnh hơn các dạng bào chế khác. Năm 1950, Lưu Quốc Thanh (Trung hoa tân y học báo) đã báo cáo dùng nước sắc cô đặc 100% của hoa kim ngân thấy Tác dụng kháng sinh rất mạnh đối với vi trùng thương hàn, tả, lien cầu khuẩn tiêu máu (vòng vô khuẩn tới 11-20mm), vi trùng lỵ, trực khuẩn coli, tụ cầu khuẩn, phế cầu khuẩn, đối với bạch hầu cũng có tác dụng nhưng kém hơn (2-10mm) Bảng sau đây cho biết nồng độ loãng nhất có tác dụng ức chế đối với sự phát triển của vi trùng: Vi trùng lỵ Shiga 1/640 Schmith 1/2560 Vi trùng lỵ Flexner 1/1280 - Sonnei 1/320 - Thương hàn 1/300 Vi trùng phó thương hàn A 1/300 Vi trùng phó thương hàn B 1/300 Vi trùng tả 1/160 Trực khuẩn coli 1/160 Dịch hạch 1/1280 Tụ cầu khuẩn vàng (aureus) 1/40 Lien cầu khuẩn tiêu máu A 1/320 Lien cầu khuẩn tiêu máu B 1/160 Bạch hầu 1/80 Phế cầu khuẩn 1/60 Năm 1960, Sơ nghiên cứu trung y dược tỉnh Giang tây trung quốc có nghiên cứu so sánh tác dụng kháng sinh của nước sắc hoa kim ngân và nước sắc lá kim ngân thì đã đi tới kết luận là nước sắc lá kim ngân với nồg độ 20-1,2% có tác dụng ức chế vi trùng lỵ Shiga, nước sắc lá kim ngân với nồng độ 20-5% có tác dụng ức chế đối với Vi trùng phó thương hàn A, nồng độ 100% có tác dụng đối với tụ cầu khuẩn, nhưng đặc biệt các tác giả nhận thấy nước sắc hoa kim ngân lại hoàn toàn không có tác dụng kháng sinh. Các tác giả cho rằng tác dụng kháng sinh còn lệ thuộc vào thời kỳ thu hái hoa và còn tiếp tục nghiên cứu. Tác dụng trên đường huyết-năm 1930, Mẫn Bính kỳ (Dược lý đích sinh dược học, 1933) đã thông báo sau khi cho thỏ uống nước sắc hoa kim ngân thì lượng huyết đường tăng; hiện tượng này kéo dài 5-6 giờ mới trở lại bình thường. Tác dụng ngăn chặn choáng phản vệ-năm 1966, Đỗ tất lợi, Nguyễn Năng An và Bùi Chí Hiếu (Hội nghị thuốc Nam lần thứ 4, Hà nội) đã báo cáo nước sắc kim ngân có khả năng ngăn chặn choáng phản vệ trên chụôt lang: trên chuột lang được uống kim ngân, số lượng và chất lượng tế bào hạt (mastocytes) ở mạng treo ruột ít thay đổi, lượng histamine ở phổi chuột lang bị choáng phản vệ cao gấp rưỡi so với chuột lang bình thườờng hay đã được uống kim ngân trước khi gây choáng phản vệ. Độ độc-các tác giả trênn (Đỗ Tất Lợi, Nguyễn Năng An và Bùi Chí Hiếu) còn cho biết chuột nhắt trắng uống liên tục 7 ngày với liều gấp 150 lần điều trị cho người, chuột vẫn sống bình thường, giải phẫu các bộ phận không thay đổi gì đặc biệt.
Đơn thuốc:
Thuốc K1 (Đỗ Tất Lợi 1960) chữa mụn nhọt, mẩn ngứa, một số trường hợp dị ứng: kim ngân 6g (nếu là hoa) hoặc 12g (nếu là cành hoặc lá), nước 100ml, sắc còn 10ml, thêm đường vào cho đủ ngọt (chừng 4g). đóng vào ống hàn kín, hấp tiệt trùng để bảo quản. nếu dùng ngay thì không cần đóng ống và chỉ cần đun sôi rồi giữ sôi trong 15 phút đến nửa giờ là uống được. người lớn ngày uống 2-4 liều 92-4 ống); trẻ em từ 1-2 liều. Thuốc K 2 (Đỗ Tất Lợi 1960) là đơn thuốc trên thêm 3g ké đầu ngựa vào. Cùng một công dụng và liều dùng. Thuốc chữa mụn nhọt, mẫn ngứa, thông tiểu: hoa kim ngân 6g, cam thảo 3g, nước 200ml, sắc còn 100ml, chia 2 hay 3 lần uống trong ngày.; Ngân kiều tán (bài thuốc kinh nghiệm từ cổ) thường dùng chữa mụn nhọt, sốt cảm: hoa kim ngân 40g, liên kiều 40g, kinh giới tuệ 16g, cát cánh 24g, đạm đậu sị 20g, bạc hà 24g, ngưu bang tử 24g, đạm trúc diệp 16g. tất cả sấy khô tán bọt. có thể làm thành viên. Ngày uống 1-2 lần, mỗi lần uống 12g bột. Chú thích: Ngoài vị kim ngân nói trên, trong nhân dân con dùng một cây kim ngân khác có tên khoa học là Lonicera dasystyla Rehder, gọi là kim ngân dại (cây trên gọi là kim ngân khôn) có thân xanh và nhẵn lá xanh, chia thùy khi còn non, lá bắc hình dùi, hẹp dài (dài nhất 10mm), bầu nhẵn. Một lọai nữa hay được dùng cũng có lá bắc hình dùi, dài, hẹp nhưng bầu có lông có tên khoa học là Loniceae confuse DC. Tóm tắt ba loài kim ngân thường dùng ở nước ta: Tất cả đều có phiến của tràng dài gần bằng ống nhưng: 1. Lá bắc hình dùi, hẹp và dài (dài nhất 10mm) Bầu nhẵn Lonicera dasystyla Rehder Bầu có lông Lonicera confuse DC. 2. Lá bắc giống lá nhưng nhỏ hơn (ít nhất 15mm) Lonicera japonica Thunb.
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd